Tin tức

Đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy sự gia tăng của “giám sát sinh học”

Đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy sự gia tăng của “giám sát sinh học”

November 30, 2021

This post is also available in: English (English)

Giám sát sinh học (Biosurveillance) là quá trình truy vết dữ liệu y tế và sức khỏe để tìm kiếm manh mối về một sự kiện sức khỏe có thể xảy ra như một vụ bùng phát dịch bệnh. Trải qua nhiều thời kỳ, đây được coi là một phần thông thường và cần thiết trong công tác giám sát sức khỏe cộng đồng. Tuy nhiên, COVID-19 đã khiến mọi người mất cảnh giác và giờ đây các Chính phủ đang tìm cách tăng cường các biện pháp giám sát sinh học trong tương lai.

Covid-19 và sự gia tăng của giám sát sinh học h1

Hiện nay, sự với xuất hiện của các ứng dụng theo dõi sức khỏe từ xa và theo dõi tiêm chủng (cùng với các loại “công nghệ đại dịch” và sinh trắc học khác), chúng ta phải đối mặt với một kịch bản đáng báo động: những bước đi của chúng ta ngày hôm nay phục vụ cho mục tiêu chống COVID một ngày nào đó có thể được sử dụng để chống lại chính chúng ta trong công cuộc giám sát hàng loạt. Hãy tưởng tượng các kỹ thuật chống khủng bố cùng với truy tìm liên lạc kỹ thuật số được hợp nhất lại, cộng thêm một số máy bay không người lái sử dụng công nghệ AI và một số tội phạm công nghệ cao tìm cách trục lợi từ ransomware y tế, quốc gia giám sát sẽ có một thời kỳ hoàng kim.

Công nghệ đại dịch có thể mở rộng hoạt động giám sát sau ngày 11/9

Tương tự, mọi thứ đã thay đổi sau ngày 11/9, chúng ta có thể sẽ phải đối diện với các chiến lược giám sát sinh học toàn cầu, rộng rãi khi chúng ta tập trung ưu tiên phát triển các nền tảng kỹ thuật số có thể theo dõi mọi động thái của chúng ta dưới danh nghĩa vì sức khỏe cộng đồng.

Một số chuyên gia sức khỏe cộng đồng, chẳng hạn như cựu ủy viên FDA Scott Gottlieb, đã kêu gọi việc kết hợp với “các công cụ an ninh quốc gia”. Trong bản phát hành mới Uncontrolled Spread của mình, Gottlieb viết: “COVID đã chỉ ra rằng một đại dịch có thể gây ra nguy cơ an ninh quốc gia nghiêm trọng. Áp lực chính trị để cải thiện khả năng giám sát của chúng ta – sử dụng mọi khả năng của chúng ta – là quá lớn”.

Người ta sẽ nghĩ rằng sau ngày 11/9, tất cả các cuộc thảo luận về khủng bố sinh học sẽ tạo ra quan hệ hợp tác giữa lĩnh vực y tế công và tình báo. Đây chỉ là một phần của nhận định. Trong khuôn khổ hoạt động An ninh quốc gia, Hoa Kỳ đã thiết lập một số chương trình: Trung tâm Tích hợp Giám sát Sinh học Quốc gia (NBIC), BioWatch và Trung tâm Phân tích và Ứng phó Phòng thủ sinh học Quốc gia. Trong khi NBIC có vai trò rất quan trọng trong việc theo dõi sớm COVID-19, phần lớn lĩnh vực tình báo hoạt động độc lập với nguồn lực y tế công cộng: Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh (CDC). Đây là điều mà các chuyên gia như Gottlieb cho rằng cần phải thay đổi, làm dậy lên ý kiến từ người ủng hộ quyền riêng tư.

Mặt khác, các tập đoàn lớn đã và đang đầu tư vào giám sát sinh học. Tháng 6/2021, CDC đã gia hạn hợp đồng với Công ty phân tích dữ liệu Palantir Technologies có trụ sở tại Denver nhằm mục đích giám sát dịch bệnh. Palantir được thành lập vào năm 2004, ở thời kỳ hậu 11/9 và nhanh chóng hợp tác với cộng đồng tình báo (bao gồm Bộ Quốc phòng và CIA) để sử dụng phân tích dữ liệu lớn từ giám sát hàng loạt nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công khủng bố trong tương lai. Theo cuộc điều tra hiện đang được thực hiện bởi Project PM, Palantir từ lâu đã nằm trong tầm ngắm của cơ quan giám sát quyền riêng tư vì các kỹ thuật khai thác dữ liệu của họ rất toàn diện và có dấu hiệu xâm phạm.

Viện Y tế Quốc gia cũng đã ký hợp đồng với Palantir để tiếp tục hợp tác thu thập dữ liệu COVID. Chương trình này được cho là sử dụng “liên kết hồ sơ bảo vệ quyền riêng tư (PPRL)” để liên kết dữ liệu “với hình ảnh y tế, công cụ omics, hồ sơ sức khỏe điện tử và các yếu tố xã hội quyết định sức khỏe để giúp các nhà nghiên cứu trả lời các câu hỏi về COVID. PPRL tìm và liên kết các hồ sơ về cùng một bệnh nhân qua các nguồn dữ liệu được duy trì độc lập bằng cách sử dụng giá trị băm mật mã để bảo vệ danh tính của họ. Trong khi Palantir hứa hẹn về tính bảo mật, sự liên kết chéo của các dữ liệu sức khỏe nhạy cảm làm dấy lên những mối lo ngại lớn.

Những người ủng hộ quyền riêng tư đang lên tiếng. Trong một bài báo được đăng vào tháng 4 năm 2021, Liên đoàn Tự do Dân sự Hoa Kỳ (ACLU) cho biết: “Chúng ta phải đảm bảo rằng cơ sở hạ tầng giám sát dữ liệu COVID-19 không được tồn tại lâu hơn đại dịch thế kỷ này”. Ngoài ra, Tổ chức Biên giới Điện tử (Electronic Frontier Foundation) gần đây đã ban hành hướng dẫn về COVID và quyền kỹ thuật số, kêu gọi tăng cường cảnh giác chống lại sự xâm phạm quyền riêng tư.

Có lẽ cảnh báo ớn lạnh nhất đến từ người tố giác, Edward Snowden, cựu nhân viên Cơ quan Tình báo Mỹ (NSA), nói về COVID-19 và giám sát sinh học như sau: “Họ đã biết những gì bạn đang xem trên internet. Họ đã biết điện thoại của bạn đang di chuyển đến đâu. Bây giờ họ biết nhịp tim của bạn là bao nhiêu, mạch của bạn là bao nhiêu. Điều gì sẽ xảy ra khi họ kết hợp những dữ liệu này và áp dụng trí tuệ nhân tạo vào nó?”

Khả năng lạm dụng rất dễ xảy ra.

Theo dõi liên hệ kỹ thuật số và các cơ quan thực thi pháp luật

Xét một ví dụ về theo dõi liên hệ. Ở dạng ban đầu, theo dõi liên hệ là một hoạt động dựa trên niềm tin, giữa người với người. Nhân viên y tế   tìm cách nói chuyện với các cá nhân trong cộng đồng của họ về những người họ đã gặp, họ đã ở đâu và những gì (hoặc ai) họ có thể đã chạm vào. Nó có thể là một cuộc trò chuyện mang tính cá nhân cao. Khi dịch bắt đầu bùng phát, theo dõi tiếp xúc có thể giúp làm chậm hay ngăn chặn mầm bệnh.

Với COVID-19, việc theo dõi tiếp xúc đã gặp trở ngại bởi vì vi-rút di chuyển quá nhanh, đặc biệt là khi biến thể delta đang thống trị. Trước biến thể delta, các công ty công nghệ đã gần như phát điên khi cố gắng tạo ra ứng dụng theo dõi liên hệ hoàn hảo. Vì điện thoại của chúng ta theo dõi vị trí của chúng ta (và thường là các liên hệ lân cận) nên việc theo dõi kỹ thuật số thông qua điện thoại thông minh có vẻ như là một bước tự nhiên tiếp theo. Theo dõi liên hệ kỹ thuật số cũng loại bỏ nhiều yêu cầu về sự tin cậy giữa con người với con người.

Covid-19 và sự gia tăng của giám sát sinh học h1

Lĩnh vực công nghệ đặt rất nhiều lạc quan vào các ứng dụng này cho COVID, thậm chí dẫn đến mối quan hệ hợp tác giữa hai gã khổng lồ công nghệ Google và Apple, nhưng những ứng dụng cụ thể này không thành công như mong đợi, một phần do các vấn đề về cường độ tín hiệu và lo ngại về quyền riêng tư. Google và Apple cho biết trong tương lai, hệ thống iOS và Android của họ sẽ được tích hợp sẵn hệ thống thông báo COVID này trên điện thoại, để người dùng chỉ cần chọn tham gia thay vì mất thời gian cài đặt ứng dụng. Một hệ thống, được gọi là Exposure Notifications, sử dụng tín hiệu Bluetooth từ điện thoại thông minh đã chọn tham gia để xác định mức độ gần và khoảng thời gian hai điện thoại ở gần nhau.

Sự thành công của việc theo dõi kỹ thuật số như vậy phụ thuộc vào số lượng người dùng chọn tham gia, vì vậy chúng ta có thể mong đợi một sự thúc đẩy lớn đối với công nghệ này nếu vi-rút COVID tiếp tục lây lan hoặc trong trường hợp có đại dịch khác. Với những lời kêu gọi ngày càng tăng về “an ninh quốc gia” trong các nỗ lực y tế công cộng, rất có thể chúng ta sẽ thấy việc triển khai các hệ thống theo dõi liên hệ kỹ thuật số được yêu cầu trong tương lai. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu những công nghệ tương tự này không chỉ được áp dụng để ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh mà còn để giám sát các cuộc biểu tình, các nhóm hoạt động và các nhà báo?

Thật vậy, Rolling Stone đã tiết lộ rằng các sở cảnh sát trên toàn quốc đang phân bổ quỹ COVID cho hoạt động giám sát dưới chiêu bài “kiểm soát đám đông” và các biện pháp sức khỏe cộng đồng. Ví dụ ở Bắc Carolina, tiền dành cho COVID đã đóng góp vào việc mua phần mềm giám sát dữ liệu công cộng dựa trên AI từ Dataminr, một công ty mà cảnh sát đã sử dụng để giám sát các cuộc biểu tình Black Lives Matter năm 2020. Và ở Mesa, Arizona, một báo cáo đã chỉ ra rằng một sở cảnh sát đang sử dụng hàng triệu đô la tiền COVID để hỗ trợ một “trung tâm tội phạm thời gian thực” nhằm mục đích giám sát cộng đồng.

Covid-19 và sự gia tăng của giám sát sinh học h1

Ngoài ra, COVID-19 đã làm tăng nhu cầu đối với máy bay không người lái hỗ trợ AI, không chỉ cho các mục đích trực tiếp về sức khỏe cộng đồng như cung cấp vắc xin và thuốc, mà còn giữa các sở cảnh sát hy vọng sử dụng công nghệ máy bay không người lái để tăng cường khoảng cách xã hội trong đám đông và cho phép thực hiện nhiệm vụ từ xa, tránh tiếp xúc.

Những tác động bất ngờ mà chúng ta chưa từng nghĩ đến

Trước sự bùng nổ của COVID-19 trên phạm vi toàn cầu và nhu cầu chăm sóc sức khỏe từ xa, điện thoại thông minh đã trở thành thiết bị giám sát sinh học phổ biến nhất. Một số quốc gia có quy định bắt buộc công dân phải tải một số ứng dụng nhất định xuống điện thoại thông minh của họ nhằm mục đích theo dõi bệnh tật hoặc tình trạng tiêm chủng.

Bạn muốn tìm điểm truy cập COVID gần bạn? Có một ứng dụng cho điều đó. Và nếu tình cờ bạn thấy mình cần một thẻ tiêm chủng giả, thì cũng có một ứng dụng dành cho việc đó.

Thật không may, các ứng dụng điện thoại thông minh cũng dễ bị tấn công mạng.

Vào năm 2020, một ứng dụng chăm sóc sức khỏe có tên Babylon đã có một lỗ hổng bảo mật “cho phép bệnh nhân xem các cuộc họp video của những bệnh nhân khác với bác sĩ”. Trong trường hợp này, đây không phải là một cuộc tấn công có chủ đích và nhanh chóng được khắc phục, nhưng hãy tưởng tượng nếu lỗ hổng đã bị khai thác bởi tội phạm mạng muốn truy cập vào dữ liệu y tế nhạy cảm. Một ứng dụng khác được Luxottica sử dụng để lên lịch cho bệnh nhân ở Ý đã bị tấn công bởi ransomware vào năm 2020, ảnh hưởng đến gần 830.000 bệnh nhân.

Covid-19 và sự gia tăng của giám sát sinh học h1

Và cả một quốc gia có thể gặp rủi ro. Ví dụ ở Indonesia, một vi phạm trong ứng dụng COVID-19 của nước này đã làm lộ dữ liệu sức khỏe của khoảng một triệu người. Dữ liệu này không chỉ bao gồm kết quả kiểm tra COVID mà còn tiết lộ thông tin cá nhân và thông tin liên hệ, cùng với hồ sơ cá nhân từ các bệnh viện và quan chức Indonesia sử dụng ứng dụng. Loại dữ liệu thô, không được mã hóa bị lộ này có thể dẫn đến các cuộc tấn công bằng mã độc tống tiền (ransomware) và các hoạt động bất chính khác của tội phạm công nghệ cao và các tổ chức chống phá nhà nước.

Không chỉ bản thân các ứng dụng điện thoại thông minh bị tấn công mà toàn bộ hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn cầu đều dễ bị tấn công. Ransomware đang tăng vọt trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe kể từ khi xuất hiện COVID, với việc tống tiền dữ liệu là kỹ thuật phổ biến nhất trên toàn thế giới. Và tờ USA Today gần đây đã xuất bản một câu chuyện về “phần mềm giết người” – là phần mềm độc hại được sử dụng với mục đích kết liễu cuộc sống trong bệnh viện và các cơ sở có nguy cơ cao khác.

Sự gia tăng rủi ro an ninh mạng trong chăm sóc sức khỏe đã dẫn đến sự quá tải ngày càng tăng trong cho các chuyên gia bảo mật và CNTT, những người được giao nhiệm vụ giữ thông tin an toàn và riêng tư, trong thời đại mà thông tin y tế được bảo vệ (PHI) “được truyền tải thông qua các công cụ giao tiếp cá nhân hoặc không an toàn.”

Vì một xã hội toàn cầu đang nỗ lực đối phó với thương tổn đang diễn ra vì COVID-19, chúng ta đang chuyển giao thông tin sức khỏe của mình cho các chính phủ và tội phạm công nghệ cao trong khi ngành bảo mật của chúng ta đấu tranh để bảo vệ chúng ta khỏi sự ngây thơ của chính mình.

Một nhu cầu khẩn cấp về những “Ethical Biohackers” (kẻ tấn công sinh học có đạo đức)

Một thiết bị bạn sở hữu (hoặc mang theo) có lưu trữ và/hoặc kiểm soát thông tin sức khỏe của bạn dưới dạng điện tử không? Fitbit của bạn, máy bơm insulin của bạn, cổng thông tin chăm sóc sức khỏe trên điện thoại thông minh của bạn? Còn hồ sơ kê đơn của bạn thì sao? Các bài đăng trên mạng xã hội của bạn? Dòng tiêu đề email của bạn? Lịch sử tìm kiếm của bạn? Còn những từ bạn nói xung quanh micrô đang hoạt động trên điện thoại thông minh của bạn (hoặc điện thoại của người khác) thì sao? Bác sĩ, chuyên gia hoặc bác sĩ tâm thần của bạn có lưu trữ thông tin của bạn trong một hồ sơ sức khỏe kỹ thuật số không? Bạn có kết nối với một cuộc hẹn từ xa trong thời điểm COVID không? Bạn đã bao giờ tải xuống ứng dụng theo dõi COVID được yêu cầu vì lý do nào đó, chẳng hạn như để đi du lịch quốc tế hoặc thậm chí chỉ để tham dự một lễ hội âm nhạc?

Nếu nó được lưu trữ hoặc theo dõi kỹ thuật số, nó có thể bị tấn công. Mọi thứ kết nối với internet đều có thể bị tấn công. Càng sớm hiểu điều này, chúng ta càng sớm có thể làm cho hệ thống giám sát sinh học của mình an toàn hơn trước tội phạm mạng độc hại và các tổ chức chính phủ áp bức.

Để chống lại các phương pháp giám sát sinh học ngày càng tinh vi này, chúng ta cần nắm rõ suy nghĩ của hacker. Hacker tìm kiếm các lỗ hổng trong các thiết bị và hệ thống, và các “hacker giỏi” cố gắng tìm ra các lỗ hổng đó trước khi một kẻ xấu (hoặc một chế độ độc tài) có được chúng. Hầu hết các hacker đều có bản tính hiếu kỳ, và đôi khi làm những điều nguy hiểm với công nghệ do tính hiếu kỳ. Bởi vì tội phạm mạng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và lạm dụng giám sát sinh học nói riêng làm tăng nguy cơ thương vong cho con người và tiềm ẩn nguy cơ gây hại rất lớn, chúng ta cần có các giải pháp đối phó triệt để. Chúng ta cần phải suy nghĩ như hacker, mà cụ thể, chúng ta cần phải suy nghĩ như những hacker sinh học.

Nghe có vẻ trái ngược, nhưng tấn công sinh học có đạo đức có thể là một vũ khí mạnh mẽ chống lại việc lạm dụng quản lý sinh học trong tương lai.

“Biohacking” là một thuật ngữ có nội hàm rộng, bao gồm các hoạt động, từ việc sử dụng các kỹ thuật dinh dưỡng để tối ưu hóa cơ thể người, đến việc sử dụng các kỹ thuật can thiệp xâm lấn như cải biến gien và tăng cường điều khiển học. Nhưng trong cộng đồng an ninh mạng, biohacking theo nghĩa đen đề cập đến sự xâm nhập kỹ thuật số vào các hệ thống và thiết bị y sinh học điện tử.

Các hội nghị hacker như DEF CON hiểu rõ về khái niệm này. Biohacking thậm chí còn nằm trong lịch trình của họ.

Ví dụ, một hình thức tấn công sinh học thường được thảo luận tại DEF CON là chip RFID hoặc NFC có thể cấy ghép. Loại công nghệ này là công cụ giám sát sinh học tối ưu; nó nằm dưới da, theo dõi người dùng từ bên trong. Nó đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của báo chí trong thời gian COVID vì những người theo thuyết âm mưu phỏng đoán rằng có thể vắc-xin COVID có chứa vi mạch cấy ghép.

Tôi đã liên hệ với một số chuyên gia bảo mật để biết thêm thông tin về lý do tại sao tin tặc, trong số tất cả mọi người, đôi khi cấy ghép chip của chính họ tại hội nghị hacker. Bạn sẽ nghĩ rằng các tin tặc sẽ cảnh giác hơn với công nghệ như vậy, đặc biệt là tại một hội nghị có sự tham gia của các tin tặc khác.

Deviant Ollam cho hay: “Câu hỏi quan trọng nhất cần đặt ra với bất kỳ công cụ xác thực dựa trên sinh trắc học nào là:

  1. Ai kiểm soát dữ liệu trên thông tin xác thực?
  2. Ai kiểm soát cách sử dụng thông tin đăng nhập?

Nói tóm lại, tất cả đều xoay quanh sự kiểm soát… Vì rất nhiều thứ liên quan đến thông tin cá nhân, thậm chí không liên quan đến sinh trắc học, ai kiểm soát thông tin của bạn và họ đang làm gì với thông tin đó là câu hỏi cần phải có trong tâm trí của mọi người. Sau đó, ông tiếp tục giải thích rằng “tin tặc bị cài chip tại các hội nghị vì họ muốn tham gia vào quá trình chữa lành cơ thể đang chảy máu nhưng làm như vậy theo cách an toàn theo hai quy tắc đó.”

Theo Nina Alli , Giám đốc điều hành của DEF CON Biohacking Village , những người bị gắn chip tại hội nghị nên đợi khoảng hai giờ sau quy trình trước khi tải bất kỳ dữ liệu nào vào chip, tại thời điểm đó họ có thể tải bất cứ thứ gì họ muốn: “Một số người sử dụng nó như một huy hiệu công việc kéo dài thời gian, một số khác như một phần mở rộng của chuông báo xe hơi, một số đặt liên kết YouTube hoặc thông tin cá nhân (Twitter/LinkedIn)”. Vậy thì liệu các hacker có tổ chức lại với nhau và cố gắng tấn công lẫn nhau không? Rõ ràng là không. “Họ không nhất thiết phải bắt tay vào việc phá vỡ các con chip. Yếu tố thú vị về chip là sự tùy ý của họ”.

Đồng thời, những lo ngại về việc hack vi mạch cấy ghép sẽ được bảo đảm. Trong một cuộc phỏng vấn cho Gizmodo, giáo sư khoa học máy tính Matthew Green nói: “Câu hỏi thực sự trong đầu tôi là liệu có ai thực sự muốn hack bộ phận cấy ghép của bạn hay không. Sự khác biệt lớn giữa một vụ hack trên lý thuyết và một vụ bị tấn công trong thế giới thực thường là tiền.”

Cũng cần lưu ý thêm, việc cấy ghép vi mạch bắt buộc là một hành vi vi phạm trắng trợn nhân quyền vốn đã bị cấm ở nhiều bang. Bởi vì vi mạch cưỡng bức hoặc bắt buộc có khả năng ảnh hưởng đến khả năng làm việc, mua hoặc bán một cách an toàn của một người nào đó, chúng ta cần có thêm luật pháp trên toàn cầu để hạn chế việc ép buộc cấy ghép này. Tuy nhiên, việc tiêm vi mạch tự nguyện hoàn toàn là một chuyện khác. Những kẻ tấn công sinh học quyết định “gắn chip” thường làm như vậy với sự chấp nhận đầy đủ về các rủi ro. Ví dụ, Thụy Điển đang dẫn đầu xu hướng vi mạch của con người. Hàng nghìn người Thụy Điển hiện đang sử dụng phương pháp cấy ghép vi mạch để xác nhận ID của họ, để thanh toán hoặc thậm chí để được vào phòng tập thể dục.

Nhà nghiên cứu bảo mật Len Noe đã nói nhiều về việc cấy ghép vi mạch của riêng mình tại Hội nghị RSA năm 2021. “Ít nhất thì mọi người sẽ không bị che mắt, bị tát vào mặt bởi một thứ có thể là một loại công nghệ rất thay đổi thế giới… Đừng sợ những kẻ tấn công sinh học,” Noe nói trong một cuộc phỏng vấn với Archer News.

Đối với một số người hiếu kỳ, tấn công sinh học tự nguyện có thể là một cách tuyệt vời để tìm hiểu thêm về công nghệ nhận dạng sinh trắc học, nâng cao nhận thức về các tác động đối với việc giám sát sinh học có khả năng phổ biến. Nếu chúng ta bắt đầu suy nghĩ như tin tặc, chúng ta sẽ tự động muốn xác minh “ai kiểm soát thông tin và họ đang làm gì với thông tin đó”. Nếu tôi chuẩn bị cấy ghép vào tay, có lẽ tôi muốn chắc chắn rằng thứ này không phát tán dữ liệu cá nhân của tôi cho tội phạm mạng quốc gia. Tìm hiểu về công nghệ là cách bảo vệ đầu tiên của chúng tôi chống lại nó.

Vi mạch có thể cấy ghép là một ví dụ điển hình, nhưng một sinh trắc học ít bị kỳ thị hơn là Amazon One, nó sử dụng chữ in trong lòng bàn tay của bạn được liên kết với thông tin tài khoản của bạn để hoàn tất các giao dịch. Nó không giống như bạn chỉ có thể bỏ tay ra nếu thông tin của bạn bị tấn công, như bạn có thể làm với một con chip được cấy ghép. Chuyên gia bảo mật Deviant Ollam nói rằng Amazon One là “thứ khiến hacker và những người bảo mật phải thu thập dữ liệu”.

Covid-19 và sự gia tăng của giám sát sinh học h1

Và hãy cân nhắc điều này: chúng ta cầm điện thoại thông minh trên tay thường xuyên như một phần của cơ thể chúng ta. Khi chúng ta muốn liên lạc hoặc kiểm tra ở một nơi nào đó, chúng ta sẽ sử điện thoại thông minh của mình. Nó biết chúng ta đang ở đâu vào bất kỳ thời điểm nào, và với sự gia tăng của giám sát sinh học sau COVID, nó sẽ sớm có thể theo dõi tình trạng và triệu chứng tiêm chủng trên. Suy nghĩ giống như biohackers sẽ cho phép chúng ta kiểm soát tốt hơn những hình thức giám sát sinh học nào có thể truy cập vào thiết bị. Ví dụ: nếu chúng ta biết rằng theo dõi liên hệ kỹ thuật số sử dụng Bluetooth, thì việc tắt Bluetooth trên điện thoại thông minh của chúng ta có thể là một lựa chọn tốt.

Trong thời điểm COVID này, ở một mức độ nào đó, chúng ta đã trải qua chủ nghĩa tư bản giám sát trong một thế giới mà tội phạm mạng có thể giữ dữ liệu sức khỏe của chúng ta để đòi tiền chuộc.

Nguồn bài viết: Digital Health: COVID-19 and the Rise of Biosurveillance – Neon Dystopia

Share
Khôi phục dữ liệu: 092 876 5688
Tư vấn sản phẩm: 098 123 0055